công ty tnhh sản xuất giống thủy sản nam mỹ

Hotline

0978 166 999 0919 971 666

Khả năng sinh sản của tôm thẻ bố mẹ nuôi trong ao và bể

Mục lục
    Một nghiên cứu mới đây so sánh sự khác biệt về hiệu suất sinh sản của tôm thẻ chân trắng bố mẹ đã thuần hóa được nuôi trong bể tuần hoàn với trong ao đất và cung cấp những gợi ý để tối ưu hóa chiến lược nhân giống. Hiện nay, việc nuôi tôm thẻ chân trắng trên khắp thế giới hầu hết phụ thuộc vào các dòng tôm đã được thuần hóa. Đối với các chương trình nhân giống và trại giống tôm, các thông số quan trọng để xác định chất lượng sinh sản của tôm cái bao gồm; số lượng trứng mỗi lần đẻ (NE), số lượng nauplii mỗi lần đẻ (NN), tỷ lệ nở của trứng (HR), tỷ lệ tôm cái trong quần thể tôm bố mẹ đẻ mỗi đêm (điều này cũng tương đương với tần suất đẻ trứng của tôm cái, SF) và tổng số nauplii được tạo ra.

    Khả năng sinh sản của tôm thẻ bố mẹ nuôi trong ao và bể

    Nghiên cứu so sánh khả năng sinh sản của tôm thẻ bố mẹ khi nuôi trong ao đất và trong bể tuần hoàn.

    Một nghiên cứu mới đây so sánh sự khác biệt về hiệu suất sinh sản của tôm thẻ chân trắng bố mẹ đã thuần hóa được nuôi trong bể tuần hoàn với trong ao đất và cung cấp những gợi ý để tối ưu hóa chiến lược nhân giống.

    Hiện nay, việc nuôi tôm thẻ chân trắng trên khắp thế giới hầu hết phụ thuộc vào các dòng tôm đã được thuần hóa. Đối với các chương trình nhân giống và trại giống tôm, các thông số quan trọng để xác định chất lượng sinh sản của tôm cái bao gồm; số lượng trứng mỗi lần đẻ (NE), số lượng nauplii mỗi lần đẻ (NN), tỷ lệ nở của trứng (HR), tỷ lệ tôm cái trong quần thể tôm bố mẹ đẻ mỗi đêm (điều này cũng tương đương với tần suất đẻ trứng của tôm cái, SF) và tổng số nauplii được tạo ra.

    Năng suất sinh sản của tôm cái ở họ tôm he penaeids có thể bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố: Thành phần di truyền, tình trạng sức khỏe của tôm, tình trạng dinh dưỡng và các yếu tố môi trường nước nuôi. Các hệ thống nuôi trong bể tuần hoàn (RT) được quản lý tốt sẽ cung cấp một môi trường nước chất lượng ổn định với các điều kiện an toàn sinh học cao giúp giảm tỷ lệ tử vong và ô nhiễm nước. Vì những lý do này, đây được xem là một hệ thống nuôi lý tưởng trong các chương trình cải thiện di truyền và sản xuất tôm bố mẹ trưởng thành, không có mầm bệnh (SPF) cụ thể.

    Bài báo này được điều chỉnh và tóm tắt từ ấn phẩm gốc của Ren S. và cộng sự năm 2020 về một nghiên cứu nuôi tôm thẻ L. vannamei bố mẹ trong hai điều kiện nuôi - ao đất (EP) và bể tuần hoàn (RT).

    Sinh sản của tôm thẻ bố mẹ khi nuôi trong ao đất và trong bể

    Tôm thẻ  L. vannamei nauplii được sử dụng trong nghiên cứu này đến từ một cá thể sinh sản trong một đêm duy nhất của trại giống thương mại (Wanning, tỉnh Hải Nam, Trung Quốc). Sau giai đoạn nuôi ấu trùng và giai đoạn ương, hậu ấu trùng (giai đoạn PL10) được chọn ngẫu nhiên và chuyển sang ao đất (EP) hoặc hệ thống bể nuôi tuần hoàn(RT) để nghiên cứu.

    Một số tôm được thả vào ao đất 0,8 ha (EP) tại một trang trại nuôi tôm thương mại ở Wanning, Hải Nam. Ban đầu, tôm giống được thả với mật độ 25 con/m2 (200.000 con tôm giống mỗi ao) và được cho ăn với chế độ ăn thương mại, 40% protein thô. Khẩu phần thức ăn trong 5 tháng nuôi ban đầu ở mức khoảng 10% sinh khối tôm, sau đó giảm dần xuống còn khoảng 2% sinh khối tôm. Số tôm giống khác được thả trong bể tròn (đường kính 3,5 mét; sâu 0,9 mét; sâu 0,5 mét), bể tuần hoàn bằng sợi polypropylene (RT) với hệ thống nuôi tuần hoàn.

    Sau 8 tháng nuôi trong hệ thống EP và RT, tôm bố mẹ trưởng thành được thu thập ngẫu nhiên và chuyển đến trại giống để thích nghi trong bốn bể nuôi rộng 10m2, nơi con đực và con cái được nuôi riêng biệt với tỷ lệ thả 8 con/m2.

    Tôm cái được gắn các vòng mắt silicon được đánh số riêng để xác định nguồn gốc và sau đó được nuôi chung trong hai bể. Lúc 10 tháng tuổi, những con cái nghiên cứu bị cắt bỏ cuống mắt một bên. Các thông số sinh sản của tôm cái ở cả hai điều kiện nuôi RT và EP được thu thập một tháng sau khi cắt bỏ cuống mắt và dữ liệu được ghi lại trong 30 ngày. Những con cái có buồng trứng trưởng thành (giai đoạn IV) được thu thập hàng ngày và chuyển sang bể chứa những con đực trưởng thành. Những con cái giao phối thành công được đặt vào các bể 500 lít với nhiệt độ nước 28 ± 0,5oC và độ mặn từ 32 - 36 ppt. Sau một vài giờ, tất cả tôm cái trong bể sinh sản được đưa trở lại bể nuôi của chúng, và trứng đã đẻ được thu thập và ấp. 

    Đánh giá hiệu suất sinh sản của tôm 

    Nghiên cứu cho thấy các kết quả tôm nuôi trong cả 2 môi trường rất giống nhau với các thông số: Số lượng trứng mỗi lần đẻ (NE), số trứng trên mỗi lần đẻ (NN), tỷ lệ nở của trứng (HR). Tuy nhiên, đối với tần số đẻ trứng của tôm cái (SF) nuôi trong ao đất (EP) cao hơn đáng kể so với trong bể (RT).

    Một kết quả quan trọng trong nghiên cứu cho thấy sự khác biệt đáng kể về tần suất đẻ trứng của tôm cái trong môi trường ao đất (EP) cao hơn trong điều kiện nuôi bể tuần hoàn (RT). Kết quả này cũng phù hợp với quan sát của một số kỹ thuật viên trại giống ở Trung Quốc, những người báo cáo rằng đàn tôm bố mẹ được nuôi trong ao đất EP dễ trưởng thành hơn và cho thấy tỷ lệ giao phối mỗi đêm cao hơn các tôm bố mẹ cái không có mầm bệnh cụ thể khác khi được nuôi trong điều kiện bể tuần hoàn.

    Cải thiện tỷ lệ đẻ trong một quần thể tôm bố mẹ đã được công nhận là yếu tố then chốt để tối ưu hóa sản xuất nauplii ở các loài tôm he. Trong nghiên cứu này và trong một thử nghiệm kéo dài một tháng, 1/3 số tôm cái được nuôi bằng hệ thống bể tuần hoàn RT không sinh sản và 1/3 chỉ sinh sản một lần duy nhất (Hình. 1A). Ngược lại, những con cái được nuôi trong hệ thống ao đất EP cho thấy SF cao hơn đáng kể so với quan sát trong điều trị RT, với chỉ 20% không sinh sản và gần 40% sinh sản ba lần hoặc hơn (Hình 1B). Kết quả này tương tự với các báo cáo từ trại giống L. vannamei nauplii thương mại ở Mexico.


    Biểu đồ hình tròn cho thấy số lượng sinh sản của A (101 con tôm thẻ chân trắng L. vannamei bố mẹ nuôi trong bể tuần hoàn RT); và B (45 con cái nuôi trong ao đất EP), trong một tháng thử nghiệm.

    Tối ưu hóa chiến lược nhân giống tôm thẻ chân trắng bố mẹ

    Kích thước cơ thể tôm cái tác động của đến khả năng sinh sản và đây cũng là tiêu chí chính được sử dụng rộng rãi để chọn tôm bố mẹ trong các trại sản xuất tôm giống. Trong nghiên cứu, việc kiểm tra mối quan hệ giữa các thông số sinh sản và kích thước cơ thể tôm cái cho thấy rằng kích thước cơ thể có ảnh hưởng đáng kể đến năng suất sinh sản đối với các tính trạng: Số lượng trứng mỗi lần đẻ, số lượng nauplii mỗi lần đẻ, tần suất đẻ trứng của tôm cái và sức sinh sản tương đối.

    Xu hướng của những con tôm có kích thước lớn trong cả môi trường nuôi EP và RT trong nghiên cứu của này là tạo ra NE hoặc NN cao hơn những con tôm cái có kích thước nhỏ hơn. Kết quả này cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đây trên các loài tôm he khác, nơi năng suất sinh sản (NE) có tỉ lệ thuận với kích thước cá thể đẻ trứng.

    Kích thước tối thiểu của tôm cái không mang mầm bệnh cụ thể (SPF) trưởng thành hiện được cung cấp cho nông dân ở Trung Quốc dao động từ 35 - 45 gram. Những con tôm nặng 30-45 gam có thể được sử dụng để sản xuất nauplii trong trại giống, mặc dù một số nhà chăn nuôi đã khuyên nên sử dụng những con cái lớn hơn đến 45 gam vì chúng có thể sinh sản tốt hơn.

    Kết quả nghiên cứu này chỉ ra rằng không có sự khác biệt đáng kể nào đối với phần lớn các đặc điểm năng suất sinh sản giữa tôm cái L. vannamei được nuôi trong bể tuần hoàn RT và môi trường ao đất EP. Tuy nhiên, những con cái trong ao đất EP tạo ra nhiều nauplii trên mỗi cá thể hơn so với những con cái được nuôi trong bể tuần hoàn RT và điều này dẫn đến tỷ lệ SF cao hơn đáng kể. 

    Do đó, việc sản xuất nauplii trong các trại giống có thể được tối ưu hóa bằng cách sử dụng các chiến lược khác nhau liên quan đến việc lựa chọn kích thước cơ thể tôm cái. Khi sử dụng đàn giống được nuôi bằng hệ thống bể tuần hoàn (RT) thì việc chọn những con cái có kích thước cơ thể lớn hơn sẽ dẫn đến lượng nauplii cao hơn; trong khi đối với những người nuôi quy mô nhỏ sử dụng đàn tôm nuôi trong ao đất EP, việc sử dụng tôm bố mẹ cái ở loại cỡ trung bình sẽ tối đa hóa sản lượng nauplii.

    Reproductive performance of L. vannamei broodstock reared in ponds and tanks by Shengjie Ren, Ph.D. Peter B. Mather, Ph.D. Binguo Tang, David A. Hurwood, Ph.D.

    Nguồn: tepbac

    Tin liên quan
    BỆNH ĐEN MANG TRÊN TÔM

    BỆNH ĐEN MANG TRÊN TÔM

    Ngày 04/02/2021
    Nguyên nhân: Trong ao nuôi tôm, nền đáy dơ bẩn, nhiều khí độc, nhiều chất hữu cơ tích tụ là nguyên nhân cơ bản nhất gây nên bệnh đen mang. Tôm thả mật độ cao sống trong nước nuôi nhiều khí độc, đáy ao dơ trở nên suy yếu và dễ bị các tác nhân sinh hóa có hại xâm nhiễm trên mang gây bệnh đen mang. Các tác nhân sinh hóa này bao gồm:
    Những điều chưa biết về nhóm vi khuẩn Vibrio

    Những điều chưa biết về nhóm vi khuẩn Vibrio

    Ngày 23/02/2021
    Nuôi tôm thẻ chân trắng là ngành sản xuất đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Đây cũng là một trong những loài thủy sản được tiêu thụ nhiều nhất, do chúng có hàm lượng protein cao và nhiều chất dinh dưỡng khác. Trong thập kỷ vừa qua, do nhu cầu cao nên tốc độ của ngành sản xuất này phát triển một cách nhanh chóng. Và việc nuôi tôm thâm canh với mật độ quá cao đã làm tôm dễ mắc nhiều bệnh nguy hiểm, dẫn tới mức độ tử vong cao.
    TỔNG HỢP KINH NGHIỆM CHUẨN ĐOÁN BỆNH TÔM TẠI AO

    TỔNG HỢP KINH NGHIỆM CHUẨN ĐOÁN BỆNH TÔM TẠI AO

    Ngày 04/02/2021
    Kinh nghiệm chuẩn đoán bênh tại ao tôm, hữu ích cho người nuôi Quan sát dấu hiệu bất thường Mỗi buổi sáng và chiều, người nuôi tôm nên đi vòng quanh ao (hoặc ít nhất một bờ dài nhất của ao) quan sát các dấu hiệu như: tôm thiếu oxy, dấu hiệu thiếu oxy trong nước, thức ăn dư thừa, tôm chết hoặc lờ đờ, chim cò bay lượn trên mặt ao, tảo tàn,… Các dấu hiệu quan sát được cung cấp thông tin quan trọng về hiện trạng sức khỏe của tôm cũng như môi trường ao nuôi. Nhìn thấy tôm chết: trong mọi trường hợp, nhìn thấy tôm chết điều cho thấy tình trạng ao nuôi đang xấu, sức khỏe tôm rất tệ. tôm bơi trên mặt nước vào ban ngày: tôm đang sốc, có thể do oxy hòa tan thấp hoặc nhiệt độ cao hoặc bệnh.
    Lên men cám gạo kết hợp vi sinh để lấn át hại khuẩn

    Lên men cám gạo kết hợp vi sinh để lấn át hại khuẩn

    Ngày 28/01/2021
    Hệ vi sinh vật đường ruột có liên quan mật thiết đến tình trạng sức khỏe, chuyển hóa chất dinh dưỡng và hệ miễn dịch của động vật nuôi. Sau khi động vật được sinh ra, hệ vi sinh vật đường ruột của chúng dần dần được tập hợp lại. Sự tập hợp hệ vi sinh vật trong giai đoạn đầu đời có thể có tác động lâu dài đến sức khỏe vật chủ. Và có nhiều quan tâm đến mối quan hệ giữa hệ vi sinh vật đường ruột và sự tăng trưởng hoặc sức khỏe của động vật thủy sản.
    Diatomite cải thiện tôm nuôi trong hệ thống biofloc nước lợ

    Diatomite cải thiện tôm nuôi trong hệ thống biofloc nước lợ

    Ngày 29/01/2021
    Sự phát triển của các hệ thống biofloc tập trung vào việc duy trì sự cân bằng thích hợp của tỷ lệ cacbon/nitơ (C: N) trong nước như một điều kiện thiết yếu cho sự phát triển của các cộng đồng vi khuẩn dị dưỡng. Tuy nhiên, vi tảo là nhóm lớn thứ hai phát triển trong các hệ thống nuôi này, đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì chất lượng nước và cũng là một nguồn dinh dưỡng. Với hệ thống biofloc tự dưỡng (do vi tảo chiếm ưu thế) chứa mức lipid cao hơn so với hệ thống dị dưỡng (do vi khuẩn chi phối), có thể ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của sinh vật nuôi
    Dấu hiệu nhận biết tôm khỏe và tôm bệnh

    Dấu hiệu nhận biết tôm khỏe và tôm bệnh

    Ngày 10/09/2021
    Nhận biết tôm khỏe và tôm bệnh qua quan sát bên ngoài Tôm khỏe: Màu sắc cơ thể Thường có màu xanh lá cây. Màu sắc của mang tôm: Mang tôm khỏe thường rất sạch, có màu xanh đậm...
    Chìa khóa lựa chọn nguồn tôm giống

    Chìa khóa lựa chọn nguồn tôm giống

    Ngày 06/09/2021
    Tôm giống là yếu tố quan trọng để có vụ nuôi thành công. Trong nuôi tôm, con giống đóng vai trò hết sức quan trọng, bởi chất lượng con giống là một trong những điều kiện để nuôi tôm thành công. Dưới đây là một số khuyến cáo giúp người nuôi có thêm cơ sở để lựa chọn tôm giống....
    Hiệu quả tích cực từ nuôi tôm hai giai đoạn

    Hiệu quả tích cực từ nuôi tôm hai giai đoạn

    Ngày 04/09/2021
    Theo Trung tâm Khuyến nông Cà Mau, mô hình nuôi tôm thâm canh, siêu thâm canh, nuôi tôm hai giai đoạn có nhiều ưu điểm như: nuôi được mật độ cao, cỡ tôm lớn, năng suất cao, bình quân 40 - 60 tấn/ha; nuôi được nhiều vụ trong năm do rút ngắn thời gian cải tạo, hạn chế dịch bệnh do nuôi quy trình khép kín, hạn chế tối đa việc xả thải ra môi trường, do có hệ thống thu gom chất thải đưa vào túi biogas làm khí đốt…
    Xử lý nhớt bạt cho ao nuôi tôm thâm canh

    Xử lý nhớt bạt cho ao nuôi tôm thâm canh

    Ngày 22/01/2021
    Với ưu điểm rút ngắn thời gian cải tạo, kiểm soát sự thất thoát nước, dễ dàng quản lý và mật độ nuôi cao mà việc lót bạt ao nuôi tôm ngày càng phổ biến. Tuy nhiên người nuôi khi lót bạt ao nuôi lại gặp khó khăn trong vấn đề nhớt bạt. Vậy nhớt bạt là gì và phương pháp xử lý ra sao? Nhớt bạt và nguyên nhân Nhớt bạt là lớp màng nhầy trên bạt ao nuôi tôm do đạm trong thức ăn hòa tan, xác tảo tàn, chất hữu cơ, nhớt tôm lột, các loại dinh dưỡng, thuốc… có trong nước gây nên. Nhớt bạt làm vi khuẩn, nấm (nấm đồng tiền) và rong tảo phát triển. Khi tôm ăn hoặc tiếp xúc sẽ dễ bị bệnh đường ruột và làm lượng vi khuẩn trong nước ao gia tăng nhanh chóng.
    TÁC ĐỘNG TIỀM TÀNG CỦA THỰC VẬT PHÙ DU TRONG NUÔI TÔM THÂM CANH

    TÁC ĐỘNG TIỀM TÀNG CỦA THỰC VẬT PHÙ DU TRONG NUÔI TÔM THÂM CANH

    Ngày 28/01/2021
    Thực vật phù du là các thực vật có kích thước rất nhỏ trôi nổi trong nước. Là yếu tố sinh học cơ bản của hệ sinh thái nuôi trồng thủy sản, thực vật phù du đóng một vai trò không thể thay thế trong dòng năng lượng và chu trình dinh dưỡng. Trong tự nhiên, hầu hết các động vật thủy sản sử dụng thức ăn tự nhiên bao gồm cả động vật và thực vật hiện diện trong môi trường sống và nguồn thức ăn ban đầu cho động vật thủy sản giai đoạn ấu trùng là thực vật phù du. 
    Zalo
    Mess
    Map
    Hotline
    0978 166 999 0919 971 666