công ty tnhh sản xuất giống thủy sản nam mỹ

Hotline

0978 166 999 0919 971 666

EHP là gì?

Mục lục
    EHP (Enterocytozoon hepatopenaei) là dịch bệnh nguy hiểm thường gặp trên tôm thẻ chân trắng, gây ảnh hưởng đến ngành nuôi tôm công nghiệp đã được quan tâm và đưa vào nghiên cứu trong nhiều năm nay. Tác động của EHP đối với nuôi tôm  Hầu hết khi tôm nuôi nhiễm vi bào tử trùng (EHP) thường không có dấu hiệu bệnh lý rõ ràng. Đối với tôm giống thả nuôi trong tháng đầu tiên, tôm vẫn phát triển bình thường và thường sau khi tôm đạt đến trọng lượng từ 3-4g thì tôm có dấu hiệu chậm lớn và có thể dừng lớn hẳn.  Ngoài ra, nhiều phần trên cơ thể tôm chuyển sang màu trắng đục. Tôm nhiễm vi bào tử trùng (EHP) thường có hiện tượng mềm vỏ, giảm ăn, chết rải rác và rỗng ruột. Kích thước thường không đồng đều ở tôm nuôi trong những ao nhiễm bệnh.

    EHP là gì?

    đường ruột tôm
    EHP thường k có dấu hiệu rõ ràng, ngoài còi cọc, chậm lớn. Ảnh: Tây Oggy.

     

    EHP (Enterocytozoon hepatopenaei) là dịch bệnh nguy hiểm thường gặp trên tôm thẻ chân trắng, gây ảnh hưởng đến ngành nuôi tôm công nghiệp đã được quan tâm và đưa vào nghiên cứu trong nhiều năm nay.

    Tác động của EHP đối với nuôi tôm 

    Hầu hết khi tôm nuôi nhiễm vi bào tử trùng (EHP) thường không có dấu hiệu bệnh lý rõ ràng. Đối với tôm giống thả nuôi trong tháng đầu tiên, tôm vẫn phát triển bình thường và thường sau khi tôm đạt đến trọng lượng từ 3-4g thì tôm có dấu hiệu chậm lớn và có thể dừng lớn hẳn. 

    Ngoài ra, nhiều phần trên cơ thể tôm chuyển sang màu trắng đục. Tôm nhiễm vi bào tử trùng (EHP) thường có hiện tượng mềm vỏ, giảm ăn, chết rải rác và rỗng ruột. Kích thước thường không đồng đều ở tôm nuôi trong những ao nhiễm bệnh.

    Đặc điểm sinh học EHP

    Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) thuộc họ Enterocytozoonidae, ngành Microsporidia. Quá trình hình thành EHP có thể được xem thành 3 giai đoạn chính như sau: Giai đoạn bào tử ngoại bào, nhiễm trùng (ma- ture) và nhiều giai đoạn sống nội bào.

    Đường truyền EHP

    Sơ đồ minh họa vòng đời và đường truyền của EHP.

    (1) Sự nảy mầm của bào tử, trong đó bào tử đâm thủng màng tế bào chủ và truyền vật chất vào tế bào chủ.

    (2) Quá trình phân chia hạt nhân để tạo ra một plasmodium phân nhánh.

    (3) Tiền chất đùn bào tử được hình thành bên trong plasmodium.

    (4) Plasmodium được phân cắt để tạo ra bào tử.

    (5) Tế bào chủ bị vỡ để giải phóng bào tử trưởng thành truyền EHP thông qua phân và hiện tượng ăn nhau ở tôm nuôi. 

    Quá trình xâm nhập của EHP vào tế bào gan tụy trên tôm cũng tương tự sự xâm nhiễm của các bệnh khác ở các tế bào khác như HPV, YHV,... Ở đó, gan tụy trên tôm bắt đầu nhiễm bệnh  bào tử của vi trùng sẽ làm thủng màng plasma của tế bào gan tụy, sau đó bào tử đưa trực tiếp tế bào chất vi trùng vào trong tế bào gan tụy của tôm. Chúng trưởng thành và làm ổ. Khiến các tế bào biểu mô của gan tụy tôm sưng lên và cuối cùng vỡ ra để giải phóng  các bào tử trưởng thành. Từ đó tạo điều kiện cho sự nhiễm trùng ở các tế bào khác hoặc giải phóng bào tử trưởng thành vào môi trường thông qua phân, do đó làm lây nhiễm cho các loài tôm nuôi.

    Bào tử

    Bào tử EHP là bào tử đơn nhân, hình bầu dục có kích thước (1,1 ± 0,2 μm × 0,6 ± 0,2 μm). Bào tử của EHP được bao bọc bởi một thành bào tử gồm hai lớp dày đặc: Lớp exospore bên ngoài dày 10nm và elec- tron-lucent  bên trong dày 2nm (nội bào tử). Lớp thành này có nhiệm vụ bảo vệ bào tử khỏi các điều kiện khắc nghiệt và các tác động bên ngoài từ môi trường. Vì vậy, mầm bệnh khó có thể được loại bỏ hoàn toàn ra khỏi ao nuôi.

    Sự lây truyền

    Trong ao nuôi, EHP truyền nhiễm khi tôm ăn phải phân có chứa bào tử được giải phóng từ tôm bị nhiễm bệnh trong môi trường sống hoặc do tình trạng ăn nhau trên tôm đã bị nhiễm bệnh trước đó.

    Tôm bố mẹ bị nhiễm EHP có thể truyền cho tôm non trong trại giống thông qua việc thải phân có chứa bào tử trong bể sinh sản. Mặc khác, nauplii có thể bị nhiễm bệnh khi chúng bắt đầu ăn sinh vật phù du ở giai đoạn N6. Vì thế, trong nuôi trồng người ta thường rửa trứng hoặc nauplii giai đoạn đầu (N1-N5) bằng nước sạch để giúp giảm nguy cơ làm lây lan bệnh trong ao thả nuôi.

    Chẩn đoán mô học

    Quan sát vi bào tử trùng EHP trong mẫu phân và biểu mô gan tụy qua kiểm tra mẫu kính phết và mô học bằng kính hiển vi và các phương pháp được dùng trong chẩn đoán bệnh: Kỹ thuật PCR và LAMP; Phương pháp kiểm tra mẫu bằng kính hiển vi (nhuộm Hematoxylin và Eosin), kính hiển vi điện tử,…. để phát hiện nhanh chóng và chính xác EHP cho trại giống và ao nuôi.

    nhuộm tế bào EHP

     

    (a)  Tế bào biểu mô ống HP duy nhất cho thấy bản chất phân nhánh của plasmodium EHP trong tế bào chất tế bào, xung quanh nhân vật chủ. 

    (b) Hai photomicrographs của các tế bào HP nhẹ nhàng bị đè bẹp nhuộm màu phloxine B và hiển thị plasmodia phân nhánh và hạt nhân vật chủ.

    (c) Potomicrograph cho thấy plasmodia dày (khó phân biệt phân nhánh). 

    (d) Photomicrograph một vết hp nhuộm H&E cho thấy một cụm bào tử EHP từ một tế bào biểu mô bị vỡ. 

    (e), (f) Hai máy quang hóa của vết hp nhuộm màu H&E, hiển thị EHP plasmodia và bào tử.

    Mối tương quan giữa nhiễm EHP và “hội chứng phân trắng” (WFS)

    Trong một số trường hợp, khi tôm nuôi bị nhiễm EHP sẽ không gây chết nhưng đồng thời cũng làm tôm giảm quá trình hấp thu các chất dinh dưỡng ở gan tụy, dẫn đến tiêu kém và có thể gây nên phân trắng. Mặt khác, khi tôm bị nhiễm trùng EHP nghiêm trọng thường đi kèm với sự tăng sinh của vi khuẩn dẫn đến sự xâm nhập của các mầm bệnh cơ hội khác và sự hiện diện của vi khuẩn có thể gây nên WFS ở tôm bị nhiễm bệnh nặng. 


    Tuy trong ao nuôi EHP và WFS có thể hiện diện nhưng phân trắng không thể được coi là chỉ số nhiễm EHP. Ảnh: Tepbac.

     

    Trong ao nuôi, EHP và WFS có thể hiện diện trong cùng một lúc hoặc ao có thể ngừng bị phân trắng nhưng khi kiểm tra tôm vẫn bị nhiễm EHP. Hơn nữa, phân trắng có thể do nhiều các nguyên nhân khác gây ra như nhiễm trùng gregarine nặng, do vi khuẩn, tảo hay nền đáy. Do đó, việc quan sát phân trắng trong hệ thống ao không thể được coi là chỉ số nhiễm EHP.

    Ngoài ra, để đảm bảo nguyên nhân gây bệnh người nuôi có thể kiểm tra EHP trong các sợi phân trắng bằng kính hiển vi để giúp phân biệt giữa nhiễm EHP hoặc gregarine và có thể kiểm tra bằng phương pháp mô học khi thực hiện quan sát bằng kính hiển vi không đạt hiệu quả.

    Phòng ngừa EHP trong ao nuôi

    Để phòng ngừa EHP, người nuôi tôm nên đảm bảo rằng nguồn cung cấp ấu trùng sau (Postlarvae) âm tính với PCR và thực hiện các biện pháp an toàn sinh học thích hợp trước và sau khi thả giống để ngăn ngừa nhiễm bệnh.

    Thức ăn tươi sống đặc biệt khi dùng cho tôm bố mẹ phải đảm bảo sạch hoặc được đông lạnh ở −20°C trong 48h.

    Tôm bố mẹ nên bỏ đói từ 4-6h trước khi chuyển sang bể sinh sản để làm giảm tình trạng đi phân của chúng trong bể đẻ. 

    Trứng hoặc nauplii trước giai đoạn N6 nên được rửa kỹ bằng nước. Ấp trứng sạch để loại bỏ các mầm bệnh, EHP có khả năng từ phân tôm bố mẹ trong bể sinh sản.

    Trước khi thả ao (đặc biệt là những ao trước đây đã bị ảnh hưởng bởi EHP), nên điều trị bằng vôi (CaO) để tiêu diệt các bào tử còn sót lại trong bể.

    Tôm Postlarvae nên được kiểm tra PCR trước khi thả.

    Sau khi thả giống PL âm tính với EHP, tôm trong ao nên được lấy mẫu và xét nghiệm EHP bằng phương pháp phân tử. 

    Bổ sung định kì các khoáng, Vitamin C nhằm tăng sức đề kháng, tăng cường trao đổi nước, loại bỏ phân thải thường xuyên cho tôm nuôi.

    Thiên An @thien-an

    Tin liên quan
    Điều gì sẽ xảy ra khi pH trong ao tôm quá cao hoặc quá thấp?

    Điều gì sẽ xảy ra khi pH trong ao tôm quá cao hoặc quá thấp?

    Ngày 23/02/2021
    Tôm thẻ chân trắng là loài thủy sản quan trọng nhất là ở các nước ven biển Thái Bình Dương. Tuy nhiên, hiện nay với việc mật độ nuôi ngày càng cao, chất lượng nước ngày càng suy giảm, các thông số môi trường đã trở nên cực kỳ quan trọng đối với sức khỏe của tôm. Khí độc NH3, thiếu oxy và độ mặn thấp sẽ gây stress, tổn thương gan tụy và ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình thẩm thấu của tôm.
    BỆNH TRÊN TÔM VÀ NGOẠI KÝ SINH

    BỆNH TRÊN TÔM VÀ NGOẠI KÝ SINH

    Ngày 04/02/2021
    Ảnh hưởng của ngoại sinh vật bám trên tôm Các ngoại sinh vật kí sinh trên tôm thường xuất hiện nhiều trong ao nuôi mật độ cao hoặc nước dơ, nhiều chất hữu cơ lơ lững. Chúng ăn vi khuẩn, tảo đơn bào và protozoa nhỏ hơn. Hầu hết sinh vật kí sinh trên mang hoặc bề mặt là những sinh vật sống tự do, không thực kí sinh, chúng xem tôm như giá thể. Ngoại sinh vật bám không gây hại trực tiếp cho tôm. Chúng gây ra các tác hại gián tiếp do:
    Một số công nghệ trong cho ăn và theo dõi hành vi ăn của tôm

    Một số công nghệ trong cho ăn và theo dõi hành vi ăn của tôm

    Ngày 03/11/2021
    Máy cho ăn phản hồi âm thanh Máy cho ăn hẹn giờ đã được ngành công nghiệp nuôi tôm sử dụng trong hơn một thập kỷ nhưng gần đây công nghệ cho ăn phản hồi âm thanh đã được phát triển và cung cấp trên thị trường. Đây là một loại hệ thống cho ăn theo yêu cầu, tích hợp hoạt động của tôm ghi âm trực tiếp làm yếu tố để xác định thời điểm cho tôm ăn...
    HỘI CHỨNG CHẾT SỚM EMS/AHPND

    HỘI CHỨNG CHẾT SỚM EMS/AHPND

    Ngày 03/02/2021
    Tác nhân Ngộ độc độc tố vi khuẩn hoặc tảo do: i. Tôm giống nhiễm các vi khuẩn Vibrio paraheamolyticus có nhiễm phage (Lighner) (Chalor Limsuwan). Vi khuẩn sinh ra độc tố liên kết với mô gan tụy làm hư hoại cơ quan này.
    BỆNH HOẠI TỬ TRÊN TÔM

    BỆNH HOẠI TỬ TRÊN TÔM

    Ngày 04/02/2021
    Nguyên nhân Do virut: Gồm 2 chủng virus là IMNV thuộc họ Totiviridae (Infectious myonecrosis virus) gây đục cơ trên tôm thẻ gặp ở Brazil và chủng PvNV thuộc họ nodavirus (Penaeus vannamei nodavirus) gặp ở Belize. Bệnh do virus gây ra sẽ lây truyền theo chiều ngang (tôm khỏe sang tôm bệnh thông quan môi trường nước hoặc tôm khỏe ăn tôm bệnh) và dọc (từ tôm bố mẹ sang tôm giống). Khi môi trường biến động, IMNV có thể gây chết từ 40 – 70% tôm thẻ nhiễm bệnh trong khi PvNV không gây chết cho tôm. Bệnh do IMNV thành dịch chủ yếu xảy ra trên tôm thẻ chân trắng P. vannamei (trong tất cả độ mặn). Có gây nhiễm thí nghiệm trên tôm xanh P. stylirostris và tôm sú P. monodon nhưng bệnh không gây chết.
    HỘI CHỨNG PHÂN TRẮNG

    HỘI CHỨNG PHÂN TRẮNG

    Ngày 04/02/2021
    Hội chứng phân trắng một bệnh phổ biến và ảnh hưởng lớn đến tôm nuôi 1. nguyên nhân gây bệnh: (i) Do song bào trùng gregarin (thường gặp ở tôm gồm Ematopsis, Cephalolobus, Paraophioidina sp.)....
    Bổ sung thêm khoáng cho tôm sao hiệu quả

    Bổ sung thêm khoáng cho tôm sao hiệu quả

    Ngày 25/09/2021
    Bổ sung khoáng chất cho tôm nuôi đúng cách sẽ quyết định đến tỷ lệ sống và sự tăng trưởng của tôm nuôi. Đặc biệt trong những thời điểm tôm cần bổ sung để lột xác....
    Biện pháp duy trì màu nước ao tôm bền vững

    Biện pháp duy trì màu nước ao tôm bền vững

    Ngày 25/09/2021
    Có cách nào duy trì được màu nước cho ao nuôi tôm thẻ bền vững, an toàn không?
    Kiểm soát quần thể vi khuẩn gây bệnh trên tôm bằng probiotics

    Kiểm soát quần thể vi khuẩn gây bệnh trên tôm bằng probiotics

    Ngày 23/09/2021
    Bài báo này được điều chỉnh và tóm tắt từ nghiên cứu Restrepo và cộng sự năm 2021, mô tả đặc điểm cộng đồng vi sinh vật của những con tôm sử dụng chế phẩm sinh học Vibrio diabolicus ILI sau khi thử nghiệm thử thách với mầm bệnh hoại tử gan tụy (AHPND)....
    Chăm sóc tôm giai đoạn lột xác và các yếu tố ảnh hưởng

    Chăm sóc tôm giai đoạn lột xác và các yếu tố ảnh hưởng

    Ngày 01/09/2021
    Tôm sinh trưởng bằng cách thay vỏ giáp cứng bằng vỏ giáp mới lớn hơn được hình thành bên dưới lớp cũ; đây được gọi là quá trình lột xác hoặc lột lớp biểu bì bên ngoài. Dựa trên những thay đổi về hình thái, sinh lý và biểu bì, Drach (1939) đã chia chu kỳ lột xác thành bốn giai đoạn cơ bản được xác định là: postmolt (sau khi lột xác), intermolt (giữa các lần lột xác), premolt (trước khi lột xác) và molt (lột xác)....
    Zalo
    Mess
    Map
    Hotline
    0978 166 999 0919 971 666