Không phải ngẫu nhiên mà những người nuôi tôm có kinh nghiệm lại cho rằng: “Nuôi tôm là nuôi nước”. Điều này là có cơ sở bởi Tôm sống trong môi trường nước và là đối tượng nuôi rất nhạy cảm trước sự thay đổi của các yếu tố thuỷ lý, thuỷ hoá trong ao. Vì vậy để duy trì các yếu tố này trong ngưỡng thích hợp cho sinh trưởng, phát triển của tôm nhằm mang lại thành công thì bà con nuôi tôm cần làm tốt công tác giám sát sau
1. Giám sát ao nuôi
Mặc dầu tất cả các ao nuôi đều được giám sát, nhưng phương thức giám sát và mức độ giám sát lại khác nhau rất lớn. Các ao nuôi tôm Quảng canh (QC) có diện tích lớn cần số lần giám sát ít nhất. Nhu cầu giám sát ao nuôi và số lần giám sát tăng khi mức độ thâm canh (TC) cao.
Các yếu tố chất lượng nước thường được giám sát trong các ao nuôi nhất là độ pH, độ mặn DO, sự phong phú của sinh vật thuỷ sinh, độ đục của nước, amoniac, nitơrit và H2SO3, các chỉ tiêu này có thể đo với độ chính xác cao bằng các biện pháp đơn giản từ đó có thể rút ra các phương án quản lý ao nuôi hiệu quả. Đối với đất thường phải lấy mẫu phân tích trong phòng thí nghiệm.
2. Giám sát pH
– Với các ao nuôi được xây dựng ở gần vùng đất chua phèn, việc giám sát pH của nước ao nuôi là rất cần thiết để kịp thời điều chỉnh độ chua không vượt quá mức cho phép (7,5-8,5). Tần suất giám sát pH tốt nhất là 1 tuần 1 lần.
– Ở những nơi không phải là vùng đất chua phèn, tần suất giám sát pH có thể 2 tuần 1 lần
Khi pH của nước thấp hơn 7,5 chúng ta nên thay nước; khi trời mưa, rải vôi CaCO3 từ 20-30kg/1.000m2 xung quanh bờ ao; bón vôi: CaCO3, Dolomite, Zeolite liều lượng 10-15kg/1.000m2.
Khi độ pH cao hơn 8,5 cần tiến hành thay nước để làm giảm lượng bùn bã, chất lơ lửng trong ao, sử dụng vôi vừa phải trong qúa trình nuôi và giữ độ kiềm không quá cao; khi cải tạo ao phải kiểm tra độ pH đất để tránh dùng vôi quá mức cần thiết; dùng một số hợp chất có tính acid để giảm để giảm pH.
3. Độ mặn
Các khu nuôi tôm thường lấy nước từ vùng cửa sông nơi độ mặn bị thay đổi theo mùa. Độ mặn thay đổi từ từ, do đó chỉ cần đo độ mặn từ 1-2 lần trong một tuần trừ khi nguồn nước bị ảnh hưởng mạnh của thuỷ triều. Hầu hết các ao nuôi trong cùng một khu vực nuôi có độ mặn hầu như giống nhau vì thế không cần phải đo độ mặn ở tất cả các ao, mà chỉ cần đo ở một vài ao nuôi trong hệ thống. Trong các trường hợp trên một khu nuôi có các nguồn nước khác nhau dẫn đến độ mặn của chúng cũng khác nhau thì phải đo độ mặn ở từng ao.
Nồng độ mặn có thể được đo trực tiếp bằng tỷ trọng kế, máy đo độ mặn xách tay ( máy đo chiết xuất), hoặc máy đo độ mặn điện tử ( máy đo độ mặn dẫn điện).
4. Oxy hoà tan
Nồng độ oxy hoà tan trong ao rất biến động, chúng biến đổi cả theo chiều ngang và cả chiều sâu. Nồng độ lớn nhất là vào buổi chiều và thấp nhất vào buổi sáng sớm do quá trình quang hợp và hô hấp. Vào ban ngày, nồng độ ô xy lớn nhất là ở gần mặt nước do cường độ ánh sáng và nhiệt độ giảm dần theo độ sâu. Mức độ dao động của oxy hoà tan trong vòng 24 giờ và sự chênh lệch nồng độ theo độ sâu sẽ tăng khi mật độ thực vật phù du tăng.
Quan trắc nồng độ oxy hoà tan là quan trọng nhất ở trong các ao nuôi tôm bán thâm canh (BTC), TC và siêu TC vì tôm thường sống ở đáy và gần đáy ao, nơi có nồng độ oxy hoà tan thấp nhất. Với các ao nuôi TC, cứ 2-3 giờ lai đo nồng độ oxy hoà tan một lần vào ban đêm. Nếu nồng độ oxy hoà tan dưới 3mg/lít, cần phải có các biện pháp xử lý ngay để tăng nồng độ oxy hoà tan trong nước.
Nồng độ oxy hoà tan trong nước có thể được xác định bằng máy phân tích nước hoặc máy đo oxy.
5. Mật độ thực vật phù du và chất dinh dưỡng
Phương pháp đơn giản để xác định mật độ thực vạt phù du là quan sát màu nước và phân tích độ đục bằng đĩa Secchi. Mật độ phù du có thể thay đổi nhanh chóng, do đó viêc xác định chúng cần phải theo dõi hàng ngày.
Màu nước thay đổi thể hiện sự thay đổi về thành phần sinh vật phù du. Hầu hết người dân nuôi tôm đều cho rằng nước tốt là nước có màu xang sẫm, xanh vàng hoặc xanh hơi nâu bởi vì các màu này có liên quan đến tảo xanh và tảo cát thường làm thức ăn cho tôm.
Tầm nhìn của đĩa Secchi là một phương pháp để xác định mật độ sinh vật phù du vì khi khả năng nhìn thấy đĩa tăng cũng là khi mật độ phù du giảm và ngược lại. Tầm nhìn của đĩa Secchi từ 40-50 cm được coi là lý tưởng đối với hầu hết các ao nuôi tôm. Tầm nhìn cao hơn chỉ ra ít mật độ sinh vật phù du làm nguồn thức ăn tự nhiên và có sự đe doạ của các loài sinh vật lớn, mặt khác làm tảo đáy phát triển. Tầm nhìn thấp hơn thể hiện mật độ sinh vật phù du quá cao tiềm ẩn nguy cơ thiếu oxy hoà tan.
Để có số liệu đo đạc chính xác, quá trình đo đạc phải được thực hiện hàng ngày vào cùng một thời điểm đo, cùng một người thực hiện với cùng một phương pháp.
Rất khó xác định hàm lượng dinh dưỡng trong ao nuôi. Một phương pháp gián tiếp để xác định hàm lượng chất dinh dưỡng là xác định mật độ của các sinh vật phù du. Sự hạn chế về nồng độ chất dinh dưỡng trong ao nuôi được thể hiện qua sự giảm mật độ sinh vật phù du.
6. Chuyển hoá chất độc
CO2, NH3, NO2 và H2SO3 là các chất độc phổ biến trong các ao nuôi tôm. CO2 được sản sinh từ quá trìng hô hấp của các sinh vật hiếu khí, thực vật và động vật. NH3 là một sản phẩm bài tiết của tôm nuôi. Nó cũng được sinh ra trong quá trình phân huỷ các chất hữu cơ của vi sinh vật. NO2 và H2SO3 do các vi sinh vật sản sinh khi nồng độ ô xy hoà tan thấp. Nồng độ các chất độc tăng khi tỷ lệ thức ăn dư thừa nhiều trong ao. Vì thế, các vấn đề về chất độc hiếm khi xẩy ra trong các ao nuôi QC và BTC.
Trong các ao nuôi TC, nồng độ chất độc có thể tích luỹ lại theo thời gian. Do đó cần phải đo đạc các chỉ tiêu trên hàng tuần.
Trong các ao nuôi QC và BTC, khi có hiện tượng tôm chết hoặc chậm phát triển, cần phân tích các chât độc trong ao nuôi để xác định xem liệu chúng có phải là nguyên nhân gây ra các vấn đề trên không.
Các mẫu nước nên lấy gần đáy ao. Thời gian lấy mẫu không quan trọng ngoại trừ trường hợp xác định nồng độ CO2 thường được đo vào buổi sáng sớm. Nồng độ các chất độc sẽ thay đổi nhanh trong thời gia bảo quản mẫu, vì thế cần phải tiến hành phân tích ngay hoặc có các biện pháp bảo quản mẫu thích hợp.
7. Quan sát bằng thị giác
Một trong các phương pháp giám sát ao nuôi hữu hiệu và không phức tạp là quan sát bằng mắt thường. Quan sát bằng mắt và đo độ đục của nước là phương pháp giám sát thông thường nhất ở các hộ nuôi tôm TC. Ngoài sự thay đổi về màu sắc và độ đục của nước, viêc giám sát bằng mắt có thể nhận biết được tình trạng tôm nuôi thông qua các biểu hiện như bơi lờ đờ, hoạt động không bình thường, bệnh tôm… Quan sát việc hấp thụ thức ăn của tôm thường được thể hiện bằng cách sử dụng các khay cho ăn (sàng cho ăn) đặt ở các ao nuôi.
Theo PGS.TS Hà Lương Thuần thì các yếu tố môi trường đối với ao tôm được thể hiện như sau
Phan cấp | pH nước | pH đất | Độ mặn | Cấp thích nghi |
1 | 7,5-8,5 | 6,5-7,5 | 12-25 | Rất thích nghi |
2 | 6,5-7,5 | 5,5-6,6 | 10-15 và 25-30 | Thích nghi trung bình |
3 | 5,5-6,6 | 4,5-5,5 | 5-10 và 30-40 | Ít thích nghi |
4 | <5,5 | <4,5 | <5 và>40 | Không thích nghi |
Quan sát bằng mắt phải được thực hiện thường xuyên vào cả ban ngày và ban đêm. Ở các ao nuôi TC khoảng cách giữa các lần quan sát ngắn hơn. Đối với những người nuôi tôm lâu năm phương pháp quan sát bằng mắt rất hiệu quả. Tuy nhiên, để phương pháp này hiệu quả hơn nên kết hợp với các phương pháp vật lý và hoá học để xác định nồng độ DO, đĩa Secchi, độ mặn và nhiệt độ của nước.
Trần Trung Thành
Trung tâm KN Nghệ an