công ty tnhh sản xuất giống thủy sản nam mỹ

Hotline

0978 166 999 0919 971 666

Tần suất bổ sung carbohydrate có quan trọng không?

Mục lục
    Công nghệ biofloc (BFT) như một giải pháp tiềm năng để cải thiện tính bền vững của ngành nuôi trồng thủy sản. Trong công nghệ này, carbon được thêm vào thông qua việc bổ sung carbohydrate hữu cơ để cung cấp năng lượng cho quá trình đồng hóa các hợp chất nitơ thành sinh khối vi sinh vật. Điều này làm giảm nồng độ amoniac, nhu cầu thay nước và tăng biofloc có thể dùng làm thức ăn tự nhiên cho vật nuôi. 

    Tần suất bổ sung carbohydrate có quan trọng không?

    Tôm thẻ chân trắng
    Bổ sung carbohydrate tần suất thế nào để vừa hiệu quả vừa tiết kiệm?

    Ảnh hưởng của tần suất bổ sung carbohydrate trong nuôi tôm thẻ công nghệ biofloc.

    Công nghệ biofloc (BFT) như một giải pháp tiềm năng để cải thiện tính bền vững của ngành nuôi trồng thủy sản. Trong công nghệ này, carbon được thêm vào thông qua việc bổ sung carbohydrate hữu cơ để cung cấp năng lượng cho quá trình đồng hóa các hợp chất nitơ thành sinh khối vi sinh vật. Điều này làm giảm nồng độ amoniac, nhu cầu thay nước và tăng biofloc có thể dùng làm thức ăn tự nhiên cho vật nuôi. 

    Bằng cách chia nhỏ liều lượng carbohydrate (CHO) hàng ngày để lượng carbon hữu cơ đi vào hệ thống biofloc mỗi lần sẽ ít hơn, điều này có thể giúp giảm sự dao động của oxy. Vì carbon hữu cơ chủ yếu được tiêu thụ bởi vi khuẩn dị dưỡng, việc bổ sung carbohydrate thường xuyên sẽ thúc đẩy sự phát triển của vi khuẩn dị dưỡng hơn vi khuẩn tự dưỡng và giúp giảm sự dao động về pH và độ kiềm. Tuy nhiên, việc bổ sung carbohydrate thường xuyên hơn cũng sẽ làm tăng chi phí lao động, do đó có thể làm giảm hiệu quả của việc áp dụng công nghệ nuôi tôm thẻ biofloc. 

    Thử nghiệm bao gồm 3 nhóm nghiệm thức với 3 tần suất bổ sung carbohydrate và nhóm đối chứng:

    • CHO 0: Đối chứng không bổ sung carbohydrate

    • CHO 1: Bổ sung một ngày một lần, sau cữ cho ăn giữa ngày

    • CHO 3: Bổ sung một ngày 3 lần sau mỗi lần cho ăn 

    • CHO 6: Bổ sung một ngày 6 lần, trước và sau mỗi lần cho ăn 

    Ảnh hưởng đến các thông số tăng trưởng tôm thẻ

    Việc bổ sung carbohydrate làm tăng đáng kể trọng lượng cuối cùng của tôm (nhưng tương tự nhau giữa các tần số bổ sung carbohydrate) và cải thiện về tốc độ tăng trưởng đặc biệt (SGR) so với đối chứng. Không có sự khác biệt nào về tỷ lệ sống và FCR khi bổ sung carbohydrate, trái ngược với nghiên cứu của Gao et al. (2012) và Panigrahi et al. (2019) vì đã quan sát thấy sự cải thiện khả năng sống sót và FCR khi bổ sung carbohydrate. 

    Ảnh hưởng đến chất lượng nước 

    Kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ chlorophylla (Chla) cao hơn ở nhóm đối chứng, đạt mức cao nhất 337µg/L sau một tuần và tương đối ổn định cho đến khi kết thúc thử nghiệm, trong khi nồng độ chất rắn lơ lửng dễ bay hơi (VSS) và tổng carbon (TC) cao hơn đáng kể ở nghiệm thức có bổ sung carbohydrate. Nồng độ VSS tăng qua các tuần ở tất cả các nhóm nghiệm thức, đạt mức cao nhất 198mg/L vào cuối thí nghiệm. Tăng tần suất bổ sung carbohydrate từ 1 đến 6 lần mỗi ngày cho thấy không ảnh hưởng đến VSS và nồng độ Chla cũng tương tự nhau ở các nhóm nghiệm thức.

    Trong khi tổng lượng nitơ amoniac là tương tự nhau giữa các nghiệm thức và nhóm đối chứng, thì nồng độ nitơ trong nitrit và nitrat thấp hơn đáng kể ở các nhóm được bổ sung carbohydrate, đặc biệt là với tần suất carbohydrate một lần mỗi ngày, cho thấy một cộng đồng vi khuẩn hoạt động tích cực hơn trong các nghiệm thức này. Bên cạnh đó, VSS cao hơn đáng kể được tìm thấy trong nghiệm thức bổ sung carbohydrate gợi ý hàm lượng vi khuẩn trong biofloc dồi dào hơn so với biofloc ở nghiệm thức CHO 0. Việc bổ sung carbohydrate đã ngăn chặn việc sản xuất nitrit, cải thiện chất lượng nước trong nghiên cứu này. 

    Trong các ao nuôi tôm nơi lượng carbon hữu cơ hòa tan thấp, vi tảo chiếm ưu thế. Trong khi đó, vi khuẩn tự dưỡng phát triển mạnh khi có nhiều amoniac và ít cacbon hữu cơ. Trong hệ thống biofloc có bổ sung carbohydrate, vi khuẩn dị dưỡng trở nên trội hơn vi khuẩn tự dưỡng do tốc độ phát triển nhanh hơn và sử dụng chất dinh dưỡng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, việc chia nhỏ liều lượng carbohydrate hàng ngày thành 1 đến 3 hoặc 6 lần bổ sung mỗi ngày, điều này có thể đảm bảo nguồn năng lượng liên tục cho sự phát triển của vi khuẩn nhưng không thấy tác dụng có lợi đối với năng suất của tôm và sự tăng trưởng biofloc. Do đó, nên bổ sung carbohydrate tần suất một lần mỗi ngày để tôm đạt hiệu quả tốt và tiết kiệm chi phí lao động.

    Hiệu quả lưu giữ chất dinh dưỡng 

    Hiệu quả lưu giữ chất dinh dưỡng từ thức ăn chiếm hơn 50% chi phí sản xuất trong nuôi tôm. Vì vậy, tăng hiệu quả sử dụng thức ăn là một trong những cách giúp hoạt động nuôi trồng thủy sản có lãi. Điều này có thể đạt được bằng cách sử dụng hệ thống biofloc để tôm sử dụng thức ăn hiệu quả hơn và giữ lại nhiều nitơ hơn do ăn thức ăn tự nhiên biofloc. 

    Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm đối chứng có khả năng giữ lại cacbon (% đầu vào) cao hơn đáng kể trong tôm, biofloc, nước và thất thoát cacbon thấp hơn đáng kể so với các nghiệm thức khác. Còn các tần suất bổ sung carbohydrate khác nhau cho thấy ảnh hưởng tương tự đến hiệu quả lưu giữ cacbon. Nhưng đến cuối thí nghiệm cho thấy việc bổ sung carbohydrate một lần mỗi ngày dẫn đến khả năng giữ lại carbon cao hơn trong tôm và giảm lượng carbon thất thoát so với việc bổ sung 3 hoặc 6 lần mỗi ngày.

    Bất kể tần suất bổ sung carbohydrate nào, việc nuôi tôm thẻ biofloc cho thấy lượng carbon mất đi gấp đôi so với nuôi thông thường. Việc thất thoát cacbon có gây ra lo ngại về tác động môi trường của hệ thống biofloc. Chính vì thế bổ sung carbohydrate một ngày một lần giúp tôm lưu trữ chất dinh dưỡng tốt hơn và giảm thất thoát cacbon so với các tần suất bổ sung khác.

    Nghiên cứu hiện tại đã chỉ ra rằng tần suất bổ sung carbohydrate một lần mỗi ngày là tối ưu trong hệ thống nuôi tôm thẻ biofloc.

    Báo cáo gốc: Effects of carbohydrate addition frequencies on biofloc culture of Pacific white shrimp (Litopenaeus vannamei). https://doi.org/10.1016/j.aquaculture.2020.736271

    Nguồn : tepbac

    Tin liên quan
    Điều gì sẽ xảy ra khi pH trong ao tôm quá cao hoặc quá thấp?

    Điều gì sẽ xảy ra khi pH trong ao tôm quá cao hoặc quá thấp?

    Ngày 23/02/2021
    Tôm thẻ chân trắng là loài thủy sản quan trọng nhất là ở các nước ven biển Thái Bình Dương. Tuy nhiên, hiện nay với việc mật độ nuôi ngày càng cao, chất lượng nước ngày càng suy giảm, các thông số môi trường đã trở nên cực kỳ quan trọng đối với sức khỏe của tôm. Khí độc NH3, thiếu oxy và độ mặn thấp sẽ gây stress, tổn thương gan tụy và ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình thẩm thấu của tôm.
    BỆNH TRÊN TÔM VÀ NGOẠI KÝ SINH

    BỆNH TRÊN TÔM VÀ NGOẠI KÝ SINH

    Ngày 04/02/2021
    Ảnh hưởng của ngoại sinh vật bám trên tôm Các ngoại sinh vật kí sinh trên tôm thường xuất hiện nhiều trong ao nuôi mật độ cao hoặc nước dơ, nhiều chất hữu cơ lơ lững. Chúng ăn vi khuẩn, tảo đơn bào và protozoa nhỏ hơn. Hầu hết sinh vật kí sinh trên mang hoặc bề mặt là những sinh vật sống tự do, không thực kí sinh, chúng xem tôm như giá thể. Ngoại sinh vật bám không gây hại trực tiếp cho tôm. Chúng gây ra các tác hại gián tiếp do:
    Một số công nghệ trong cho ăn và theo dõi hành vi ăn của tôm

    Một số công nghệ trong cho ăn và theo dõi hành vi ăn của tôm

    Ngày 03/11/2021
    Máy cho ăn phản hồi âm thanh Máy cho ăn hẹn giờ đã được ngành công nghiệp nuôi tôm sử dụng trong hơn một thập kỷ nhưng gần đây công nghệ cho ăn phản hồi âm thanh đã được phát triển và cung cấp trên thị trường. Đây là một loại hệ thống cho ăn theo yêu cầu, tích hợp hoạt động của tôm ghi âm trực tiếp làm yếu tố để xác định thời điểm cho tôm ăn...
    HỘI CHỨNG CHẾT SỚM EMS/AHPND

    HỘI CHỨNG CHẾT SỚM EMS/AHPND

    Ngày 03/02/2021
    Tác nhân Ngộ độc độc tố vi khuẩn hoặc tảo do: i. Tôm giống nhiễm các vi khuẩn Vibrio paraheamolyticus có nhiễm phage (Lighner) (Chalor Limsuwan). Vi khuẩn sinh ra độc tố liên kết với mô gan tụy làm hư hoại cơ quan này.
    BỆNH HOẠI TỬ TRÊN TÔM

    BỆNH HOẠI TỬ TRÊN TÔM

    Ngày 04/02/2021
    Nguyên nhân Do virut: Gồm 2 chủng virus là IMNV thuộc họ Totiviridae (Infectious myonecrosis virus) gây đục cơ trên tôm thẻ gặp ở Brazil và chủng PvNV thuộc họ nodavirus (Penaeus vannamei nodavirus) gặp ở Belize. Bệnh do virus gây ra sẽ lây truyền theo chiều ngang (tôm khỏe sang tôm bệnh thông quan môi trường nước hoặc tôm khỏe ăn tôm bệnh) và dọc (từ tôm bố mẹ sang tôm giống). Khi môi trường biến động, IMNV có thể gây chết từ 40 – 70% tôm thẻ nhiễm bệnh trong khi PvNV không gây chết cho tôm. Bệnh do IMNV thành dịch chủ yếu xảy ra trên tôm thẻ chân trắng P. vannamei (trong tất cả độ mặn). Có gây nhiễm thí nghiệm trên tôm xanh P. stylirostris và tôm sú P. monodon nhưng bệnh không gây chết.
    HỘI CHỨNG PHÂN TRẮNG

    HỘI CHỨNG PHÂN TRẮNG

    Ngày 04/02/2021
    Hội chứng phân trắng một bệnh phổ biến và ảnh hưởng lớn đến tôm nuôi 1. nguyên nhân gây bệnh: (i) Do song bào trùng gregarin (thường gặp ở tôm gồm Ematopsis, Cephalolobus, Paraophioidina sp.)....
    Bổ sung thêm khoáng cho tôm sao hiệu quả

    Bổ sung thêm khoáng cho tôm sao hiệu quả

    Ngày 25/09/2021
    Bổ sung khoáng chất cho tôm nuôi đúng cách sẽ quyết định đến tỷ lệ sống và sự tăng trưởng của tôm nuôi. Đặc biệt trong những thời điểm tôm cần bổ sung để lột xác....
    Biện pháp duy trì màu nước ao tôm bền vững

    Biện pháp duy trì màu nước ao tôm bền vững

    Ngày 25/09/2021
    Có cách nào duy trì được màu nước cho ao nuôi tôm thẻ bền vững, an toàn không?
    Kiểm soát quần thể vi khuẩn gây bệnh trên tôm bằng probiotics

    Kiểm soát quần thể vi khuẩn gây bệnh trên tôm bằng probiotics

    Ngày 23/09/2021
    Bài báo này được điều chỉnh và tóm tắt từ nghiên cứu Restrepo và cộng sự năm 2021, mô tả đặc điểm cộng đồng vi sinh vật của những con tôm sử dụng chế phẩm sinh học Vibrio diabolicus ILI sau khi thử nghiệm thử thách với mầm bệnh hoại tử gan tụy (AHPND)....
    Chăm sóc tôm giai đoạn lột xác và các yếu tố ảnh hưởng

    Chăm sóc tôm giai đoạn lột xác và các yếu tố ảnh hưởng

    Ngày 01/09/2021
    Tôm sinh trưởng bằng cách thay vỏ giáp cứng bằng vỏ giáp mới lớn hơn được hình thành bên dưới lớp cũ; đây được gọi là quá trình lột xác hoặc lột lớp biểu bì bên ngoài. Dựa trên những thay đổi về hình thái, sinh lý và biểu bì, Drach (1939) đã chia chu kỳ lột xác thành bốn giai đoạn cơ bản được xác định là: postmolt (sau khi lột xác), intermolt (giữa các lần lột xác), premolt (trước khi lột xác) và molt (lột xác)....
    Zalo
    Mess
    Map
    Hotline
    0978 166 999 0919 971 666