công ty tnhh sản xuất giống thủy sản nam mỹ

Hotline

0978 166 999 0919 971 666

Isoquinoline alkaloid tăng cường hệ miễn dịch của TTCT

Mục lục
    (TSVN) – Các kết quả nghiên cứu tại Thái Lan cho thấy, hợp chất Isoquinoline alkaloid từ cây Macleaya cordata họ Anh Túc có thể được sử dụng làm phụ gia thức ăn để hỗ trợ sức khỏe của tôm và tăng đề kháng trước vi khuẩn Vibrio....

    Isoquinoline alkaloid tăng cường hệ miễn dịch của TTCT

    (TSVN) – Các kết quả nghiên cứu tại Thái Lan cho thấy, hợp chất Isoquinoline alkaloid từ cây Macleaya cordata họ Anh Túc có thể được sử dụng làm phụ gia thức ăn để hỗ trợ sức khỏe của tôm và tăng đề kháng trước vi khuẩn Vibrio.

    Các hợp chất isoquinoline alkaloid thực vật (IQs) là các thành phần tự nhiên mang nhiều hoạt tính sinh học được tìm thấy trong cây Anh Túc hồng (Macleaya cordata) phân bố rộng rãi ở Trung Quốc. Những đặc tính tiềm năng về cải thiện sức khỏe của IQs từ cây M.cordata đã được ghi nhận ở nhiều vật nuôi gồm heo, gà và thủy sản. Những hiệu lực này bao gồm cải thiện hiệu suất tăng trưởng, tăng tính thèm ăn, điều chỉnh miễn dịch, biến đổi hệ vi khuẩn đường ruột và tăng đề kháng trước một số loại vi khuẩn gây bệnh.

     

    Liên quan đến các ứng dụng của IQs trong nuôi tôm, các nghiên cứu trước đây của các chuyên gia tại Thái Lan đã phát hiện tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) ăn bổ sung IQs (100 – 200 mg/kg thức ăn trong 60 ngày và thử thách với vi khuẩn Vibrio harveyi) có số lượng Vibrio spp. trong đường ruột thấp hơn nhóm đối chứng, mặc dù những hiệu lực về tăng trưởng và tỷ lệ sống không đáng kể. Bởi vậy, thức ăn thử nghiệm lần này được chuẩn bị bằng phương trộn lẫn chiết xuất IQs với các thành phần thức ăn khác trước khi ép viên để giảm thiểu các vấn đề có thể xảy ra với IQs và nhóm nghiên cứu cũng kỳ vọng hoạt tính thúc đẩy sức khỏe của IQs lên TTCT trong thử nghiệm này sẽ nổi bật hơn.

    Xây dựng thí nghiệm

    Nghiên cứu được chia thành 2 thử nghiệm. Trong thử nghiệm 1, hiệu lực của IQs lên tăng trưởng, tỷ lệ sống và hệ thống miễn dịch được đánh giá trên tôm khỏe mạnh. Trong thử nghiệm 2, hiệu lực của phụ gia này lên tăng trưởng, tỷ lệ sống, đề kháng của tôm trước vi khuẩn V. parahaemolyticus được đánh giá sau khi gây nhiễm dịch bệnh bằng phương pháp ngâm vi khuẩn.

    Trong thử nghiệm 1, chuẩn bị 5 nghiệm thức gồm thức ăn ép viên công nghiệp không bổ sung IQs (khẩu phần đối chứng); thức ăn bổ sung IQs dạng bột (IQ-E; Sangrovit® Extra) liều 200 – 300 mg/kg thức ăn (lần lượt cung cấp 1 – 1,5 mg sanguinarine/kg thức ăn); thức ăn bổ sung IQ tan trong nước, dạng hạt (IQ-WS; Sangrovit® WS) liều 100 – 150 mg/thức ăn (lần lượt cung cấp 1 – 1,5 mg sanguinarine/kg thức ăn).

    Ấu trùng TTCT PL9 mua từ một trại giống công nghiệp ở tỉnh Chachoengsao, Thái Lan và được vận chuyển đến phòng thí nghiệm thuộc Trung tâm Nghiên cứu NTTS (ABRC) tại Khoa Thủy sản, Đại học Kasetsart, Thái Lan. Sau 3 ngày thuần hóa, 2.000 tôm PL12 (1,5 mg/PL) được thả ngẫu nhiên vào 20 bể sợi thủy tinh (5 nhóm với 4 lần lặp lại/nhóm và mật độ 100 tôm/bể), tương ứng 150 tôm/m2. Suốt giai đoạn nghiên cứu, các thông số chất lượng nước được duy trì ở ngưỡng phù hợp.

     

     

    Trong thử nghiệm 1, tôm được cho ăn đến khi no bằng 1 trong 5 nghiệm thức, tần suất 5 lần/ngày kéo dài suốt 30 ngày. Ở ngày thứ 10, 20 và 30, lựa chọn ngẫu nhiên 10 con tôm/bể để cân trọng lượng từng cá thể, đồng thời xác định tỷ lệ sống của mỗi bể.

    Sau thử nghiệm 1, tôm sống (1,3 g) trong 4 nhóm IQs được chuyển đến 16 bể sợi thủy tinh (lặp lại 4 lần/nhóm và mật độ 30 tôm/bể). Nhóm đối chứng trong thử nghiệm 1 được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm mới: Đối chứng dương (thử thách với V. parahaemolyticus) và đối chứng âm (không gây nhiễm V. parahaemolyticus) trong tổng 24 bể (6 nhóm, lặp lại 4 lần) trong thử nghiệm 2. Các thông số chăn nuôi và chất lượng nước của thử nghiệm 2 tương tự thử nghiệm 1 suốt giai đoạn nghiên cứu.

    Kết quả và thảo luận

    Các công thức isoquinoline alkaloid trong nghiên cứu này lần lượt chứa 0,5 và 1% sanguinarine. Khi kết hợp vào viên thức ăn sẽ tạo ra khẩu phần chứa sanguinarine 1 – 1,5 mg/kg thức ăn. Khi khoa học phát hiện sanguinarine và các alkaloid khác trong cây M.cordata mang hoạt tính kháng khuẩn và kháng viêm, các hoạt chất này có tiềm năng trở thành chất kích thích tăng trưởng. Thực tế, nhiều nghiên cứu đã chứng minh hiệu lực kích thích tăng trưởng của IQs trên nhiều vật nuôi khác nhau gồm heo, gà và các loại thủy sản. Nhất quán với những nghiên cứu này, các kết quả của nhóm chuyên gia Thái Lan cũng ghi nhận hiệu lực cải thiện sức khỏe của 4 khẩu phần bổ sung IQs.

    Tuy nhiên, chỉ những con tôm được gây nhiễm V. parahaemolyticus và ăn bổ sung IQs (trong thử nghiệm 2) mới được cải thiện đáng kể về tăng trọng so nhóm đối chứng, trong khi tôm khỏe mạnh (thử nghiệm 1) thì không. Những quan sát này khẳng định, kháng khuẩn và kháng viêm là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiệu lực cải thiện tăng trưởng của IQs.

    Các kết quả cho thấy, hiệu lực kích thích miễn dịch của IQs. Khẩu phần bổ sung IQs cải thiện chức năng miễn dịch của nhiều đối tượng nuôi khác gồm cá điêu hồng, chép, Koi và cũng thúc đẩy sản sinh kháng thể ở gia cầm và heo. Những đáp ứng miễn dịch được cải thiện này góp phần nâng cao tỷ lệ sống của tôm. Ngoài cải thiện chức năng miễn dịch, tỷ lệ sống cao hơn của tôm cũng nhờ vào hoạt tính kháng khuẩn của hợp chất sanguinarine.

    Triển vọng

    Dữ liệu nghiên cứu tại Thái Lan cho thấy, tất cả tôm được cho ăn bổ sung isoquinoline alkaloid trong thử nghiệm 1 đã được cải thiện đáng kể về tỷ lệ sống và thông số miễn dịch so nhóm đối chứng, dù hiệu suất tăng trưởng giữa các nhóm tương tự nhau. Trong thử nghiệm 2, nhóm ăn bổ sung IQs đạt tăng trưởng tốt hơn và tỷ lệ sống cao hơn so nhóm đối chứng dương.

    Hai công thức IQs với 2 nồng độ sanguinarine (1 và 1,5 mg/kg thức ăn) được bổ sung vào khẩu phần của tôm đã cho thấy hiệu lực tương đương nhau về cải thiện hiệu suất tăng trưởng, tỷ lệ sống, đáp ứng miễn dịch và đề kháng trước lây nhiễm V. parahaemolyticus. Ngoài ra, ở nhóm tôm này không phát hiện tổn thương mô học, gan tụy và đường ruột như ở nhóm đối chứng dương.

    Dũng Nguyên

    Theo GAA

    Tin liên quan
    Thảo dược điều trị bệnh phân trắng ở tôm

    Thảo dược điều trị bệnh phân trắng ở tôm

    Ngày 09/11/2022
    Dựa trên nghiên cứu và khảo sát thực tế, một nhóm nghiên cứu từ Ấn Độ đã giới thiệu năm loại thảo dược có thể phòng ngừa bệnh và hỗ trợ điều trị phân trắng trên tôm...
    Phát triển thủy sản trên Tây Nguyên

    Phát triển thủy sản trên Tây Nguyên

    Ngày 25/02/2021
    Năm 2017, anh Thành thử nuôi tôm càng xanh trong ao cá, do chưa có kinh nghiệm nên hai vụ tôm đầu tiên anh bị thất bại. Không nản lòng, anh tiếp tục thực hiện mong muốn của mình. Năm 2019, anh Thành mua thêm 30.000 con tôm giống càng xanh về nuôi. Lần này, tôm sinh trưởng và phát triển tốt hơn, cuối vụ, gia đình anh thu được hơn 200 kg tôm càng xanh, lãi gần 30 triệu đồng…
    Ninh Thuận: Nhiều mặt hàng thủy, hải sản tăng giá sau Tết

    Ninh Thuận: Nhiều mặt hàng thủy, hải sản tăng giá sau Tết

    Ngày 25/02/2021
    Tại Ninh Thuận, sau những ngày nghỉ Tết Nguyên đán Tân Sửu, giá nhiều mặt hàng thủy, hải sản tại các chợ cá, bến cảng tăng từ 10 – 15% nhưng vẫn hút hàng do sức tiêu thụ của người dân, khách du lịch tăng cao.
    Lộ trình mới cho ngành tôm bền vững

    Lộ trình mới cho ngành tôm bền vững

    Ngày 25/02/2021
    Kế hoạch chi tiết về chuỗi cung ứng tôm trong tương lai là một thách thức đối với các doanh nghiệp mua bán, sản xuất hoặc thu lợi từ tôm nuôi để đạt được những điều sau đây vào năm 2025: Đảm bảo truy xuất nguồn gốc của tôm nuôi và các thành phần thức ăn được sử dụng; không chuyển đổi các hệ sinh thái tự nhiên cấp sau năm 1999; giảm 30% việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên cần thiết để sản xuất cả tôm và thức ăn; đảm bảo quyền con người và quyền lao động trong toàn bộ chuỗi giá trị; yêu cầu báo cáo minh bạch để theo dõi tiến trình đạt được các mục tiêu này.
    Phòng tránh bệnh đường ruột trên tôm

    Phòng tránh bệnh đường ruột trên tôm

    Ngày 09/11/2022
    Các bệnh liên quan đến đường ruột khá phổ biến trong nuôi tôm công nghiệp hiện nay. Nếu không chữa trị kịp thời, bệnh có thể gây hại cho tôm và làm giảm năng suất, ảnh hưởng đến sự thành công của vụ nuôi...
    Thận trọng các bệnh phổ biến trên tôm mùa nóng

    Thận trọng các bệnh phổ biến trên tôm mùa nóng

    Ngày 09/11/2022
    Mùa hè, nhiệt độ lên cao và cũng hay xuất hiện những cơn mưa rào bất chợt là những yếu tố bất lợi làm xuất hiện những bệnh nguy hiểm cho tôm nuôi...
    Phòng, trị các bệnh trên mang tôm

    Phòng, trị các bệnh trên mang tôm

    Ngày 09/11/2022
    Các bệnh liên quan đến mang thường gặp ở tôm nuôi, đặc biệt là trong điều kiện ao nuôi không tốt. Những bệnh này ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả kinh tế, có thể gây chết tôm. Vì thế, việc phòng trị bệnh là vấn đề cấp thiết đối với người nuôi...
    Chẩn đoán và điều trị bệnh phân trắng

    Chẩn đoán và điều trị bệnh phân trắng

    Ngày 09/11/2022
    Trong thực tế, có rất nhiều lý do gây ra bệnh phân trắng ở tôm. Do đó, việc chuẩn đoán chính xác nguyên nhân gây bệnh để từ đó đưa ra phương án xử lý và điều trị thích hợp là quan trọng nhằm giảm thiểu thiệt hại nhất cho người nuôi...
    Xử lý bệnh phát sáng ở tôm

    Xử lý bệnh phát sáng ở tôm

    Ngày 09/11/2022
    Nguyên nhân Trong ao có sự hiện diện của tảo roi: Tảo roi và một số loại tảo giáp làm giảm ôxy hòa tan trong nước, tiết ra chất độc gây bệnh cho tôm, làm tôm giảm ăn và chậm tăng trưởng. Ngoài ra, còn làm một số loại tảo có lợi cho tôm không phát triển được. Khi tảo roi phát triển mạnh sẽ gây ra hiện tượng phát sáng ở mặt ao nuôi....
    Xử lý ao nuôi bị bệnh đốm trắng

    Xử lý ao nuôi bị bệnh đốm trắng

    Ngày 09/11/2022
    Bệnh đốm trắng do virus gây ra trên tôm đến nay chưa có phương pháp chữa trị đặc hiệu. Do đó, người nuôi cần có các biện pháp xử lý, tiêu hủy, cách ly kịp thời để ngăn chặn sự lây lan và giảm thiệt hại....
    Zalo
    Mess
    Map
    Hotline
    0978 166 999 0919 971 666